Bác sĩ Bệnh viện K chỉ rõ các giai đoạn của ung thư vú

Với chị em phát hiện ung thư vú ở giai đoạn sớm thì tỷ lệ điều trị thành công có thể lên đến trên 90%.

Theo thống kê của Tổ chức Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN), trong năm 2022 có tới hơn 2,2 triệu phụ nữ được phát hiện ung thư vú và có hơn 666.000 trường hợp tử vong. Tại Việt Nam ghi nhận khoảng 24.563 ca mắc mới, chiếm 25.8 % tổng số các bệnh ung thư ở nữ giới; tỷ lệ mắc được ghi nhân là 49,6/100.000 chị em.

TS.BS Lê Hồng Quang - Trưởng khoa Ngoại Vú Bệnh viện K cơ sở Tân Triều, ung thư vú là căn bệnh đáng lo ngại nếu phát hiện ở giai đoạn muộn.

(Ảnh minh họa).

Các chuyên gia Bệnh viện K nhận định với chị em phát hiện ở giai đoạn sớm thì tỷ lệ điều trị thành công có thể lên đến trên 90% bởi các kỹ thuật hiện đại đã được ứng dụng trong khám và điều trị, quan trọng hơn cả hiệu quả sẽ được nâng cao nếu người bệnh phát hiện và chữa trị ở “thời điểm vàng”.

Làm thế nào để xác định các giai đoạn của ung thư vú? 

Thông thường, bệnh nhân sẽ được bác sỹ khám lâm sàng, thực hiện một số chỉ định siêu âm, chụp X-quang tuyến vú, xét nghiệm máu, xét nghiệm sinh thiết để phát hiện bệnh. Dựa vào những kết quả này, bác sĩ có thể đánh giá ban đầu về giai đoạn bệnh, với các chị em phát hiện ở giai đoạn sớm, bệnh chưa tiến triển, di căn, khối u tại chỗ và được điều trị kịp thời thì đây được coi là ‘thời điểm vàng” không nên bỏ lỡ, để quá trình điều trị đạt hiệu quả cao nhất.

Các giai đoạn phát triển của ung thư vú mà chị em nên chú ý

Ung thư vú được chia làm 5 giai đoạn, cụ thể gồm: giai đoạn ung thư tại chỗ (nội ống), giai đoạn I, giai đoạn II, giai đoạn III, giai đoạn IV.

Giai đoạn 0: giai đoạn ung thư tại chỗ (nội ống)

Ở giai đoạn này, tế bào ung thư bắt đầu phát triển bất thường trong ống dẫn sữa hoặc tuyến sữa tuy nhiên không có tính xâm lấn, không lan sang các mô khác ở vú hoặc các cơ quan khác trong cơ thể.

Nếu được kịp thời phát hiện và chữa trị trong giai đoạn này, cơ hội thành công là khoảng 90-100%.

Giai đoạn I: Ung thư xâm lấn

Bắt đầu từ ung thư vú giai đoạn đầu, các tế bào ung thư dú đã phá vỡ tự do để tấn công các mô khỏe mạnh. Giai đoạn I chia làm 2 giai đoạn nhỏ hơn:

- Giai đoạn 1A: Ung thư đã lan vào các mô mỡ ở vú. Bản thân khối u kích thước không quá khoảng 2cm.

- Giai đoạn IB: Một lượng nhỏ tế bào ung thư được tìm thấy trong một vài hạch bạch huyết.

- Giai đoạn II: Ung thư đã phát triển, lan rộng hơn.

Ung thư vú ở giai đoạn 2 cũng chia làm 2 giai đoạn nhỏ hơn:

- Giai đoạn IIA: Khối u (nếu có) trong vú vẫn còn nhỏ. Các tế bào ung thư có thể không có trong các hạch bạch huyết, hoặc đã di căn đến giai đoạn III.

- Giai đoạn IIB: Khối u vú lúc này có thể có kích thước đã từ 2-5cm. Khối u có thể có hoặc không có ở bất kỳ hạch bạch huyết nào.

- Giai đoạn 3: Ung thư tiến triển nặng hơn

Ung thư vú giai đoạn 3 chưa di căn đến xương hoặc các cơ quan khác nhưng được coi là đã tiến triển nặng và khó điều trị hơn.

- Giai đoạn IIIA: Ung thư đã được tìm thấy trong số các hạch bạch huyết, tạo thành một chuỗi từ dưới cánh tay đến xương đòn của bệnh nhân. Hoặc đã lan đến các hạch bạch huyết sâu trong vú. Một vài bệnh nhân được phát hiện có khối u lớn ở vú trong giai đoạn này.

- Giai đoạn IIIB: Khối u đã phát triển vào thành ngực hoặc da xung quanh vú, ngay cả khi nó chưa lan đến các hạch bạch huyết.

- Giai đoạn IIIC: Ung thư đã được tìm thấy trong 10 hạch bạch huyết trở lên, hoặc đã lan rộng trên/dưới xương đòn. Giai đoạn IIIC cũng có thể biểu hiện rằng có ít hạch bạch huyết bên ngoài vú bị ảnh hưởng nhưng những hạch bạch huyết bên trong lại phì đại hoặc ung thư.

Giai đoạn 4: Di căn

Đối với ung thư vú giai đoạn cuối, tế bào ung thư vú đã lan ra xa vú và các hạch bạch huyết xung quanh, di căn đến xương, phổi, gan và não… Giai đoạn này được gọi là “di căn”, có nghĩa là ung thư đã lan rộng ra ngoài vùng cơ thể nơi được phát hiện đầu tiên.

Theo bác sĩ Quang, chị em nên chú ý đến việc tự kiểm tra vú hằng ngày tại nhà thường xuyên. Bên cạnh đó, khám, theo dõi sức khỏe định kỳ mỗi 6 tháng một lần cũng là điều cần ghi nhớ.

Theo một số thống kê, ung thư vú nếu phát hiện chậm có thể dẫn đến di căn. Sau giai đoạn này, diễn biến bệnh thường khá nhanh và thời gian sống của bệnh nhân tiên lượng sẽ dè dặt hơn.

TUẤN ANH

ĐỘC GIẢ BÌNH LUẬN