Lừa đảo qua mạng bị pháp luật nghiêm trị như thế nào

Gần đây, các hình thức lừa đảo qua mạng lại tiếp tục nở rộ khiến nhiều người dân bị thiệt hại về tài sản vì mất cảnh giác. Tùy theo mức độ vi phạm mà luật pháp đã có những quy định nhằm nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật này.
Không chỉ riêng Facebook, thời gian qua, nhiều người dùng ví điện tử Momo cũng phản ánh tình trạng bị kẻ xấu lợi dụng sự bất cẩn của khách hàng, tự xưng là nhân viên chăm sóc khách hàng của Ví Momo để lấy được mật khẩu cũng như mã OTP ví điện tử, sau đó “móc” tiền trong ví một cách dễ dàng.
Theo Zing, mới đây nhất chị Nguyễn Thị T. (quận Đống Đa, Hà Nội) cho biết chị vừa bị một kẻ gian tự nhận là nhân viên của ví điện tử Momo thuộc Công ty CP dịch vụ di động trực tuyến (M-Service) lừa đảo qua mạng và chiếm đoạt ví điện tử
Trong một lần bình luận trên fanpage chính thức của ví điện tử Momo yêu cầu hỗ trợ về dịch vụ, ít phút sau, chị T. nhận được tin nhắn của một người lạ tự nhận là nhân viên của công ty này, thông báo đã trúng thẻ quà tặng trị giá 200.000 đồng từ ví Momo.
Lua dao qua mang bi phap luat nghiem tri nhu the nao
Ảnh minh họa. 
Kẻ gian đã yêu cầu nạn nhân cung cấp số điện thoại để kiểm tra, giả vờ trong quá trình chuyển tiền gặp sự cố. Tiếp đến, chúng sử dụng số điện thoại này để đăng nhập vào ví Momo. Song song đó, kẻ lừa đảo thông báo cho chị T. có một mã OTP được gửi đến số điện thoại, chúng yêu cầu chị nhanh chóng chụp màn hình và gửi qua để “hệ thống xác thực”.
Vì mã OTP chỉ có hiệu lực vài chục giây nên các đối tượng liên tục hối thúc khách hàng thực hiện, khiến họ bị phân tâm. Sau khi truy cập được tài khoản, đối tượng lừa đảo đã đổi mật khẩu và chuyển tiền từ ngân hàng nạn nhân vào ví điện tử đã chiếm.
Đây không phải là trường hợp cá biệt, khi có nhiều người thừa nhận từng bị mất tiền oan vì tin đối tượng lừa đảo. Không chỉ nhắn tin qua tài khoản Facebook, mà kẻ gian còn gọi điện điện trực tiếp với các thủ đoạn hối thúc tương tự nhằm làm người dùng mất cảnh giác, hòng chiếm ví điện tử.
Luật sư Trịnh Khánh Toàn, thuộc Đoàn luật sư TP Hà Nội, cho biết hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tùy tính chất, mức độ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự hoặc xử lý hành chính theo quy định của Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 139 của BLHS, người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu phạm tội thuộc quy định tại Khoản 1 Điều 139 sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Phạm tội thuộc quy định tại Khoản 2 Điều 139 sẽ bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Phạm tội thuộc quy định tại Khoản 3 Điều 139 sẽ bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Phạm tội thuộc quy định tại Khoản 4 Điều 139 sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Trường hợp chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, thì người đó sẽ bị xử lý hành chính theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 15 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Theo đó, người có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đến 2.000.000 đồng.
Trong khi đó, Luật sư Nguyễn Đào Tơ – Trưởng VPLS Hoàng Huy- nhấn mạnh nếu số tiền chiếm đoạt trên 2.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thỏa mãn các dấu hiệu tại khoản 1 Điều 174 BLHS 2015 thì bị khởi tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Hiện nay, Facebook là một loại mạng xã hội phổ biến nhất. Ngoài việc giao lưu kết bạn, chia sẻ cảm xúc, đây còn là một “thị trường” bán hàng khá phổ biến cho các bạn đang mê kinh doanh. Do quan niệm Facebook cũng chỉ là một mạng xã hội ảo, một số người đã lợi dụng mạng xã hội để lừa đảo cộng đồng, mà không biết rằng mọi hành động qua mạng xã hội gây thiệt hại, hoặc ảnh hưởng đến người khác đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Theo chuyên gia, khi người dân nhận được các thông báo trúng thưởng như trên, cần tham khảo thông tin kỹ, từ nhiều nguồn (Internet, bạn bè…), không nên giao nộp tiền cho đối tượng thông qua các hình thức nạp thẻ cào, chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng,…
Trong trường hợp bị các đối tượng liên tục quấy rối qua điện thoại, đe dọa, ép buộc nhận thưởng, người dân cần kiên quyết từ chối các thông tin do đối tượng cung cấp, đồng thời báo tin cho cơ quan Công an nơi gần nhất để được tiếp nhận tin báo và xử lý theo luật định.
Khi bị lừa, các nạn nhân hoàn toàn có thể tố giác hành vi lừa đảo của nhóm người trên tới cơ quan Công an, viện kiểm sát, tòa án… Trong đơn tố giác, bị hại cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở (nội dung tin nhắn trên điện thoại, qua Facebook, số điện thoại, địa chỉ Facebook...).
Theo An Ninh Thủ Đô

ĐỘC GIẢ BÌNH LUẬN