Bức tranh sáng - tối ngành Ngân hàng cuối 2023 và dự kiến 2024

Theo Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), ngành Ngân hàng đang ghi nhận bức tranh đan xen những mảng sáng - tối.  
Tín dụng tăng tốc cuối năm, kỳ vọng về đích ở mức 10-11%
Số liệu công bố từ NHNN cho thấy tính đến cuối tháng 10/2023, tổng dư nợ nền kinh tế tăng 6,81% so đầu năm, tăng trưởng tín dụng chứng kiến tốc độ nhanh hơn kể từ cuối quý 2. Mặc dù đã có sự cải thiện so với đầu năm song nhu cầu tín dụng vẫn tương đối thấp trong bối cảnh kinh tế chưa thực sự có nhiều điểm sáng.
KBSV nhận thấy xu hướng dịch chuyển cho vay từ nhóm KHCN sang nhóm KHDN ở một số ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán lẻ lớn như ACB, VIB, HDBank do (1) kinh tế khó khăn khiến nhóm KHCN thắt chặt chi tiêu; (2) ngân hàng và công ty tài chính thu hẹp cho vay trước lo ngại rủi ro nợ xấu từ mảng cho vay tiêu dùng tương đối cao.
Theo chia sẻ của một số ngân hàng, mảng KHCN vẫn ghi nhận tăng trưởng nhưng chậm hơn so với năm trước. Dư nợ cho vay tiêu dùng toàn hệ thống chỉ tăng khoảng 1,53% so đầu năm, mức thấp nhất trong 5 năm gần đây, trong khi nhu cầu từ nhóm KHDN nhiều hơn. Dù vậy, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp chủ yếu vẫn để duy trì vốn lưu động hơn là mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tín dụng cấp cho lĩnh vực bất động sản đạt 2,74 triệu tỷ đồng, tương ứng mức tăng 6,04% so đầu năm, chiếm tỷ trọng 21,46% dư nợ nền kinh tế. Điều này phù hợp để giải thích cho tăng trưởng tín dụng vượt mức trung bình ngành ở một số ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản lớn như Techcombank, VPBank, MBB. Tín dụng bất động sản tăng trở lại sau những chính sách hỗ trợ được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn trong thời gian qua.
Tín dụng thông qua trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) giảm mạnh trong 9 tháng đầu năm bởi những vụ việc liên quan đến Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát gây ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin của nhà đầu tư. Số dư TPDN tại các ngân hàng giảm đáng kể bởi (1) lượng phát hành mới từ các doanh nghiệp bất động sản hạn chế; (2) các doanh nghiệp tích cực mua lại trái phiếu trước hạn. Theo VBMA, tính đến tháng 10/2023, tổng giá trị TPDN phát hành riêng lẻ đạt 184.796 tỷ đồng, giảm 43,8% so với cùng kỳ.
Buc tranh sang - toi nganh Ngan hang cuoi 2023 va du kien 2024
Tăng trưởng tín dụng và huy động của các ngân hàng  
KBSV duy trì quan điểm tăng trưởng tín dụng sẽ duy trì đà phục hồi tốt hơn trong quý 4, với mức tăng trưởng dự kiến cho cả năm nay là 10-11% dựa trên cơ sở (1) nhu cầu vay tiêu dùng được thúc đẩy trong các dịp lễ tết cuối năm; (2) mặt bằng lãi suất cho vay đã ở mức thấp và tiếp tục duy trì xu hướng giảm để thúc đẩy tín dụng; (3) NHNN vừa có thêm đợt cấp hạn mức tín dụng nên dư địa cho các ngân hàng vẫn còn nhiều.
Sang năm 2024, KBSV kỳ vọng các lĩnh vực của nền kinh tế sẽ ấm dần lên, những khó khăn trên thị trường bất động sản và TPDN sẽ tiếp tục được tháo gỡ. Mức tăng trưởng tín dụng năm 2024 kỳ vọng đạt 13-14%.
Thanh khoản hệ thống ổn định nhờ nguồn huy động dồi dào
Huy động vốn của hệ thống ngân hàng vẫn ghi nhận tăng trưởng dương trong những tháng gần đây, đạt 5,8% so đầu năm tính đến cuối tháng 9/2023. Điều này cho thấy thị hiếu tiền gửi vẫn được ưa chuộng khi lãi suất không còn hấp dẫn như trước, nhưng các kênh đầu tư khác như bất động sản, TPDN, thị trường chứng khoán chưa khởi sắc trở lại. Hiện tại với tốc độ tăng trưởng tín dụng khá khiêm tốn, các ngân hàng sẽ không gặp vấn đề về thanh khoản do nguồn huy động năm nay tương đối dồi dào mà một phần nhờ mặt bằng lãi suất cao trong nửa đầu năm.
Tỷ lệ CASA bắt đầu ghi nhận dấu hiệu cải thiện so với quý trước ở một số ngân hàng, tuy nhiên tốc độ hồi phục chung của cả ngành vẫn chưa được như kỳ vọng. Thị hiếu gửi tiết kiệm có kỳ hạn vẫn chiếm ưu thế hơn (như đề cập ở trên) cũng giải thích một phần cho diễn biến CASA. Các ngân hàng chúng tôi theo dõi có mức CASA được cải thiện đa phần được đóng góp từ nguồn KHDN.
Buc tranh sang - toi nganh Ngan hang cuoi 2023 va du kien 2024-Hinh-2
 Tăng trưởng huy động và tín dụng năm 2022 và 2023
Tốc độ hồi phục của NIM sẽ chậm hơn dự kiến trước đó
Hầu hết các ngân hàng trong danh mục theo dõi của KBSV đều có NIM tiếp tục giảm so với quý trước (ngoại trừ Techcombank, TPBank, MSB, OCB cải thiện nhẹ). Diễn biến không đồng pha giữa các ngân hàng cho thấy sự hồi phục của NIM chưa được như kỳ vọng.
KBSV nhận thấy áp lực chi phí vốn vẫn còn khi những khoản huy động với lãi suất cao có kỳ hạn 1 năm tới cuối năm 2023/ đầu năm 2024 mới đáo hạn. Do vậy, các ngân hàng sẽ cần thêm 1-2 quý nữa để đưa chi phí vốn (CoF) về mức tương đồng như các bước đi ở lãi suất điều hành.
Tuy nhiên mức lãi suất huy động hiện tại đã về vùng đáy Covid-19, khó còn dư địa giảm thêm nên KBSV cũng lưu ý rủi ro tăng lãi suất huy động trở lại sẽ cản trở tốc độ cải thiện CoF.
Theo quan sát của KBSV, gần đây một số ngân hàng đã tăng lại lãi suất tiền gửi để (1) tăng tỷ trọng huy động dài hạn để đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay dài hạn dưới 30% theo TT06, (2) chuẩn bị nguồn cho tăng trưởng tín dụng cuối năm.
Ở chiều lãi suất cho vay, KBSV nhận thấy lợi suất trên tài sản sinh lời (IEA) của các ngân hàng trong danh mục theo dõi tiếp tục giảm trong quý 3 (giảm 17 điểm phần trăm so với quý trước). Trong đó, nhóm Ngân hàng quốc doanh (SOB) và một số NH TMCP lớn (ACB, Sacombank) có mức giảm đang kể từ 20-30 điểm phần trăm so quý trước bởi chính sách hỗ trợ khách hàng.
KBSV cho rằng trong thời gian tới IEA sẽ duy trì xu hướng giảm do (1) các ngân hàng cạnh tranh lãi suất cho vay để giải quyết bài toán tăng trưởng tín dụng; (2) cơ cấu danh mục cho vay sang nhóm KHDN ở một số ngân hàng, vốn là nhóm có lợi suất thấp hơn nhóm KHCN.
Với với diễn biến lệch pha giữa chi phí vốn (CoF) và lợi suất tài sản sinh lời (IEA), KBSV cho rằng tốc độ hồi phục của NIM sẽ chậm hơn dự kiến, thậm chí xu hướng giảm sẽ tiếp tục ở 1 số ngân hàng trong quý 4/2023.
Sang năm 2024, mặt bằng lãi suất thấp sẽ được phản ánh hết vào CoF, trong khi lãi suất cho vay giảm chậm và có độ trễ. Trên cơ sở đó, KBSV kỳ vọng năm 2024 biên lãi thuần NIM của ngành ngân hàng sẽ có sự cải thiện rõ rệt hơn, nhưng chưa thể quay trở lại mức cao như năm 2022. Nhóm ngân hàng quốc doanh (SOB) và ACB sẽ chứng kiến tốc độ cải thiện NIM khiêm tốn hơn các ngân hàng khác do đảm nhiệm vai trò “hỗ trợ nền kinh tế”.
Buc tranh sang - toi nganh Ngan hang cuoi 2023 va du kien 2024-Hinh-3
Biến động IEA, COF, NIM của các ngân hàng so với quý trước (điểm phần trăm)  
Nợ xấu có thể phình to trong năm 2024
Nợ xấu của toàn ngành đã tăng quý thứ tư liên tiếp kể từ khi Thông tư 14 liên quan đến tái cơ cấu nợ Covid-19 hết hiệu lực, tăng lên mức 2,2% (+6,9% so quý trước). Tuy nhiên mức tăng của NPL đang có xu hướng chậm lại trong quý 3/2023 ngoại trừ nhóm NHQD (do ảnh hưởng từ Vietcombank ghi nhận nợ nhóm 4 tăng mạnh).
Việc triển khai áp dụng TT02 tạo điều kiện cho các ngân hàng giữ nguyên nhóm nợ của khách hàng đã góp phần kìm hãm sự gia tăng của nợ xấu.
Theo SBV, tính đến cuối tháng 9/2023, tổng dư nợ tái cơ cấu theo TT02 đạt 140 nghìn tỷ (chiếm 1,09% tổng tín dụng toàn hệ thống). Trong số các ngân hàng KBSV có thông tin, VPBank có nợ cơ cấu 14.900 tỷ đồng (~2,86% dư nợ), và BIDV với gần 20.000 tỷ đồng (~1,5% dư nợ), giúp kiểm soát nợ xấu tăng vọt trong quý này.
Các ngân hàng còn lại do áp lực nợ xấu không quá lớn và không ưu tiên sử dụng TT02 (do phải trích lập nhiều hơn) nên phần nợ tái cơ cấu chiếm tỷ trọng không nhiều trong tổng dư nợ (Vietcombank 0,14%, ACB 0,4%, Techcombank 0,27%, MSB 0,25%, HDBank 0,5%).
Điểm tích cực về chất lượng tài sản của ngành ngân hàng trong quý này được thể hiện ở dự nợ nhóm 2 (G2) ghi nhận giảm 7,7% so quý trước, trong khi các quý trước tăng liên tục, nợ xấu hình thành tăng chậm hơn so với quý liền trước ở tất cả các nhóm ngân hàng.
KBSV nhận thấy áp lực lên nhóm NH TMCP Lớn và Vừa (MBB, Techcombank, TPBank, MSB...) vẫn còn do chịu tác động tiêu cực từ thị trường TPDN, bất động sản và những khó khăn từ phân khúc KHCN.
KBSV cho rằng chất lượng tài sản của các ngân hàng tạm thời sẽ được kiểm soát ở mức hiện tại cho đến hết năm 2023, tuy nhiên sẽ cần lưu ý hơn khi bước sang năm 2024. Những rủi ro khiến nợ xấu xấu phình to trong năm sau có thể đến từ: (1) Thông tư 02 hết hiệu lực vào tháng 06/2024, các khoản nợ tái cơ cấu trước đây sẽ về đúng nhóm phân loại nợ; (2) Bộ đệm dự phòng của các ngân hàng thu hẹp trong năm 2023 khiến dư địa xử lý nợ cho năm sau không nhiều.
Hiện tại, LLCR giữa các ngân hàng có sự phân hoá rõ rệt, nhóm SOB vẫn duy trì bộ đệm trên 200%, trong khi tỷ lệ này ở các nhóm ngân hàng còn lại đều đã dưới mức 100% tính đến quý 3.
Theo KBSV, các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, trích lập đầy đủ, bộ đệm dự phòng vững chắc, ít phơi nhiễm với bất động sản và TPDN sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Nhóm ngân hàng top dưới với tỷ kệ bao phủ thấp (chỉ dưới 50%) sẽ chịu nhiều áp lực và không có dư địa để loại bỏ nợ xấu ra khỏi bảng cân đối.
Buc tranh sang - toi nganh Ngan hang cuoi 2023 va du kien 2024-Hinh-4
 Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng
Các nguồn thu đều có mức tăng trưởng tương đối khiêm tốn, dự phóng mức tăng trưởng LNTT đạt 10% trong 2024
Thu nhập lãi thuần (NII) toàn ngành tăng trưởng khiêm tốn trong bối cảnh hoạt động cho vay giảm tốc do môi trường vĩ mô kém thuận lợi. Hầu hết các ngân hàng chỉ ghi nhận mức tăng trưởng một chữ số trong 9 tháng đầu năm nay, trong khi cùng kỳ mức tăng trưởng ghi nhận trong khoảng 10-25%.
Thu lãi thuần ở nhóm NHQD (SOB) dẫn đầu với mức tăng trưởng 4,82% so với 9T2022, nhóm NH TMCP Lớn và Vừa cũng có mức tăng trưởng khiêm tốn hơn với 3% so cùng kỳ, trái lại NII của nhóm NH TMCP Nhỏ giảm 3,5% so cùng kỳ.
KBSV kỳ vọng quý 4 các ngân hàng sẽ ghi nhận kết quả tích cực hơn được hỗ trợ bởi tín dụng tăng tốc trong những tháng cuối năm.
Thu ngoài lãi (NFI), chiếm 20-25% trong TOI, cũng có diễn biến tương tự với thu lãi thuần bởi những làn gió ngược trên thị trường TPDN, bảo hiểm từ đầu năm nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến các nguồn thu phí của các ngân hàng.
Bù lại, một số ngân hàng đã tận dụng được biến động trên thị trường TPCP để thu lời từ hoạt động kinh doanh chứng khoán trong quý 3 (+20% so quý trước), góp phần kìm hãm đà giảm của tổng thu ngoài lãi.
Theo quan điểm của KBSV, các ngân hàng sẽ cần thêm thời gian để đưa NFI quay trở lại đà tăng trưởng như các năm trước: (1) Nghiệp vụ ngân hàng đầu tư còn phụ thuộc vào mức độ phục hồi của thị trường TPDN và đặc biệt là niềm tin của nhà đầu tư, mặc dù được kỳ vọng hồi phục trở lại trong năm 2024 trên nền thấp năm 2023 nhưng sẽ khó tăng mạnh như giai đoạn bùng nổ 2019-2021; (2) Tăng trưởng phí bancassurance dần phục hồi khi các Ngân hàng cùng công ty Bảo hiểm cải thiện chất lượng dịch vụ, bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
KBSV ước tính LNTT trước thuế của 27 ngân hàng có xu hướng giảm so với quý trước nhưng tăng nhẹ 2% so với cùng kỳ năm ngoái, và có sự phân hoá giữa các nhóm ngân hàng. Ngoại trừ nhóm NHQD có mức tăng trưởng dương so cùng kỳ, các ngân hàng còn lại trong hệ thống đều có mức giảm so với quý 3/2022.
Điều này được giải thích bởi (1) tăng trưởng tín dụng dưới mức kỳ vọng và NIM bị thu hẹp; (2) nhiều ngân hàng tăng mạnh trích lập dự phòng trong bối cảnh chất lượng tài sản suy giảm nghiêm trọng; (3) chi phí hoạt động 9T2023 ghi nhận tăng so với cùng kỳ ở hầu hết các ngân hàng, mức tăng chung của cả ngành là 7% so cùng kỳ.
Trong kịch bản cơ sở tăng trưởng tín dụng cho năm 2024 đạt 13-14%, chi phí hoạt động tiếp tục được kiểm soát, nhưng áp lực chi phí tín dụng cao sẽ chi phối LNTT. Nhìn chung KBSV dự phóng tăng trưởng LNTT của các ngân hàng trong danh mục theo dõi đạt 10% trong năm sau.
Buc tranh sang - toi nganh Ngan hang cuoi 2023 va du kien 2024-Hinh-5
 LNTT theo quý của các ngân hàng
Định giá đang ở vùng hấp dẫn so với triển vọng dài hạn
Hiện tại ngành ngân hàng đang có mức P/B ở mức 1,4x – tương đương với mức -1 std trung bình 10 năm và tiệm cận với đáy năm 2020 và 2022 (1,3x).
KBSV cho rằng trong ngắn hạn, ngành ngân hàng sẽ vẫn phải đối mặt với những khó khăn nhất định, song vẫn có những điểm sáng trong bức tranh tổng thể như đã đề cập trong báo cáo này.
Với triển vọng dài hạn của ngành ngân hàng tại Việt Nam, KBSV cho rằng mức giá hiện tại hấp dẫn để các nhà đầu tư mua vào những cổ phiếu có nền tảng cơ bản tốt.
Minh An

ĐỘC GIẢ BÌNH LUẬN